Hòa bình nhân loại – một trong những chủ trương thiết thực của Phật giáo
"Hận thù diệt hận thù
Đời này không có được
Từ Bi diệt hận thù
Là định luật ngàn thu".
Bài kệ Kinh Pháp Cú câu số 5, phẩm Song Yếu đã thể hiện tinh thần cốt yếu trong đạo Phật, đó là hòa bình và không gây hiềm khích bởi lẽ bản chất đạo Phật là một tôn giáo hoà bình. Hoà bình có nghĩa là lòng yêu thương, nhân đạo, hạnh phúc, công bằng và bình đẳng. Vì vậy, hoà bình thế giới ngày nay bao hàm nhiều ý nghĩa chứ không phải chỉ là sự vắng bóng của chiến tranh, bạo lực và giải pháp để đạt được hoà bình là một vấn đề mà cả thế giới hiện nay quan tâm. Các bài viết về vai trò quyết định của Phật giáo trong việc tạo ra điểm tựa và gìn giữ hoà bình thế giới đã được nhiều học giả, nhà nghiên cứu khai thác, luận bàn ở nhiều góc độ sâu rộng khác nhau nhưng với sự hiểu biết hạn hẹp của mình, tác giả mong rằng bài viết với nội dung tóm tắt, trình bày ngắn gọn những điểm cốt lõi về tinh thần cơ bản của đạo Phật và tư tưởng hòa bình sẽ giúp quý Phật tử không có nhiều thời gian nghiên cứu chuyên sâu vẫn có thể dễ dàng tiếp cận và lưu giữ trong nhận thức để góp nhặt vào hành trang của mình trong quá trình tu nhân học Phật.
Trước hết, hòa bình thế giới là một trong các chủ trương được thể hiện trong giáo lý đạo Phật sau quá trình đức Phật của chúng ta tự thân nghiệm rõ sau 49 ngày tư duy thiền định dưới cội bồ đề. Điều khó khăn mà nhân loại phải đối diện chính là nỗi khổ đau. Trong khi đó hoà bình, an tịnh là sự chấm dứt đau khổ, đạt được an lành vĩnh viễn là Niết Bàn, cứu cánh siêu việt của đạo Phật. Bước khởi đầu trên con đường đạt đến hoà bình là sự hiểu rõ căn nguyên của hoà bình hay nói cách khác chính là tâm giác ngộ bởi lẽ nếu tâm của mọi người ở trạng thái bình an, tỉnh thức thì cả thế giới sẽ được hoà bình, yên ổn. Hoà bình phát khởi từ tâm vì rằng tâm là mấu chốt phát sinh mọi hành động: “Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ ý tạo…”, “Không làm các việc ác, Siêng làm các việc lành, Giữ tâm ý tịnh thanh, Đó là lời Phật dạy” (kinh Pháp Cú câu số 01 và câu số 183). Hoà bình có thể là cách diễn đạt của "tâm an tịnh”, một tâm thanh thản, vô cùng tĩnh lặng, không bị xáo động, lại uyển chuyển, vi tế và được thể hiện qua tất cả các yếu tố thuần hậu của tâm. Tất cả đều do tâm sinh ra, chiến tranh loạn lạc không phải do tự nhiên mà có, chính lòng tham đắm và mưu cầu quyền lực của con người là căn nguyên của các cuộc chiến tranh. Nhân loại chúng ta đang có nguy cơ đối mặt với những gì tồi tệ nhất mà nguyên nhân chính là nguy cơ xuất phát từ nhân tâm. Đức Phật cho rằng, muốn đoạn diệt nguồn gốc chiến tranh và các biến cố loạn lạc của thế gian thì phải loại bỏ tham sân si, đề cao phẩm chất nội tại ưu việt của con người. Đây là con đường nhân bản tối ưu nhất bởi lẽ tâm bệnh nên dùng thuốc tâm để chữa trị, cứu cánh của hòa bình thế giới chỉ có thể xây dựng trên cơ sở của hòa bình nhân tâm.
Phương pháp để đưa đến hòa bình nhân loại, hay nói cách khác là đến tâm an tịnh theo lời dạy của đức Phật là thực hành con đường thánh thiện - Bát Chánh Đạo, phần sau cùng của Tứ Diệu Đế, con đường được chia làm ba gồm Giới (gồm Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng), Định (gồm Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định) và Tuệ (gồm Chánh Kiến, Chánh Tư Duy). Giới là bước đầu tiên loại bỏ những hành động (nghiệp) xấu ác về thân và khẩu, định là loại bỏ những nghiệp xấu của ý và tuệ mở rạng sự hiểu biết chân chánh nhờ ánh sáng từ sự thấy biết bản chất sự thật của vạn pháp. Khi nguyên tắc này được thực hành đúng đắn theo lời dạy của đức Phật thì bốn lậu hoặc[1], năm triền cái[2], mười kiết sử[3] sẽ tự động bị tiêu trừ. Đây là lý do tại sao con đường trung đạo - đời sống thanh tịnh, hạnh phúc và bình an tránh xa hai thái cực: tham đắm, khoái lạc và khổ hạnh là con đường mà nhân loại chúng ta nên đi theo. Thêm vào đó, y cứ nơi lời Phật dạy về Tứ Vô Lượng Tâm - bốn đức tính cao thượng của người con Phật (Từ, Bi, Hỷ, Xả) có thể tạo ra sự cảm thông lẫn nhau giữa con người và quốc gia trên thế giới. "Từ" diệt được ác tâm và bản ngã, giúp nuôi dưỡng tình thương và hoà bình cho nhân loại, điều này được minh chứng hùng hồn trong bài kệ của Kinh Từ Bi, thuộc Kinh Tập: “Như tấm lòng người mẹ, đối với đứa con duy nhất của mình, trọn đời lo che chở. Cũng vậy, đối tất cả các chúng hữu tình, hãy phát triển tâm ý rộng lớn không hạn lượng”. "Bi" có nghĩa là sự trừ khổ cho người khác, nó không chỉ là tình cảm đối với chúng sanh đang đau khổ mà còn là thái độ tích cực của một người trước đau khổ của người khác, nỗ lực tinh tấn đúng đắn để giảm dần nỗi đau đó. Thuyết về lòng Từ là cội nguồn đạo đức tốt đẹp đưa đến quan điểm của đức Phật về chính trị trong nước cũng như các vấn đề về chiến tranh và hoà bình.
Đức Phật dạy chúng ta: Thế giới do nhân duyên hòa hợp mà sinh ra, là một chỉnh thể các dạng quan hệ nằm trên sự tương tục nhân quả của thế gian, nương tựa lẫn nhau. Con người, sự vật đều tuân theo một quy luật nhân quả có tầng thứ nhất định. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nguồn gốc thanh khiết, hết thảy đều bình đẳng. Bình đẳng ở đây không chỉ là không đồng quan điểm, không đồng quần thể, không đồng nhân chủng mà còn là phổ quát tất cả chúng sanh trong vũ trụ, các hạng người, các giai tầng xã hội đều nhất loạt bình đẳng, không phân cao thấp. Đức Phật phản đối việc phân chia giai cấp, Ngài luôn bảo vệ những người thuộc giai cấp thấp, Ngài dạy: “Mưa tưới khắp mặt đất thấm nhuần cỏ cây hoa lá không có phân biệt, vì thế phải từ bi bình đẳng cùng thương yêu kính trọng lẫn nhau”. Vì thế, Phật giáo yêu cầu chúng ta trong quan hệ giữa chúng sanh, xã hội, tự nhiên nên giúp đỡ lẫn nhau, hòa bình cộng xứ, thương người như thương mình. Đó là lý do mà Ngài dạy chúng ta về pháp Lục hòa (thân hòa đồng trú, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải, lợi hòa đồng quân) vì rằng, hòa hợp, thanh tịnh, an lạc là ba đức tính lớn của Tăng già. Như vậy, đức Phật không chỉ dựa trên lý luận đề xướng hòa bình mà còn y cứ nơi những giá trị trong đời sống thực tiễn tự bản thân Ngài đã hành trì và thực nghiệm.
Tóm lại, đạo Phật là một tôn giáo vô cùng hiền thiện, bình đẳng, công bằng và an tịnh. Giáo lý nhà Phật dạy chúng ta chỉ dùng sự chân chánh để chiến thắng sức mạnh và bạo lực. Đức Phật không chỉ chủ trương bất bạo động và hoà bình, mà Ngài còn là bậc đạo sư đầu tiên và duy nhất đích thân mình đến tận chiến trường để ngăn chặn sự bùng nổ chiến tranh. Đó chính là lý do mà đạo Phật không hề phai mờ theo dòng thác thời gian tuông chảy tràn trong vô thức và hoàn toàn thích hợp cho xu thế hoà bình và cảm thông trên toàn thế giới. Đây chính là những giá trị thiết thực, hiện hữu và đóng góp vô cùng quan trọng đối với hòa bình nhân loại, đại đồng quần sanh.
Tâm Nhuận
[1] Bốn lậu hoặc là bốn nguyên nhân đưa đến khổ đau gồm dục lậu (luyến ái, dục lạc, đắm say vật chất trong dục giới), hữu lậu (gồm dục hữu tương tự như dục lậu, sắc hữu và vô sắc hữu là muốn nói đến tham mê, dính mắc, chấp thủ trong trạng thái hỷ, lạc, xả của thiền định), kiến lậu (chấp thủ vào các tà kiến) và vô minh lậu (không sáng suốt, không tỉnh thức, thiếu hiểu biết…).
[2] Năm chướng ngại đưa đến sự giải thoát, giác ngộ gồm tham dục, sân hận, hôn trầm (trạng thái nặng nề của cơ thể và mờ tối của tâm thức dẫn đến lừ đừ, chán nản), trạo cử (trạng thái tâm như khỉ vượn, không bao giờ chịu đứng yên), hoài nghi (trạng thái nội tâm còn nghi ngờ).
[3] Hay còn gọi là thập phiền não hoặc Thập tùy miên, được hiểu là mười sợi dây trói buộc chúng sanh trong luân hồi sanh tử bao gồm tham (sự ham muốn mọi sự), sân (sân giận, nóng nảy, hung dữ), si (sự mê tối không phân được chánh tà), mạn (kiêu ngạo, khinh người), nghi (nghi ngờ chánh pháp), thân kiến (thấy thân này là thật), biên kiến (thấy biết một phương diện của sự vật, hiện tượng), tà kiến (thấy biết sai lầm), kiến thủ (chấp giữ sự thấy biết sai lầm cho là đúng), giới cấm thủ (chấp giữ những giới sai trái).