
Tịnh Độ Cảnh Ngữ
Tuy nói công cao dễ tu tiến, mà người tu thời mạt pháp ít được hiệu nghiệm, ấy bởi do tín nguyện không chuyên, nên chưa thể dẫn đến hạnh lành để trở về cõi tịnh.
Nay đã mời nhiều bạn lành cùng nhau tu tập nhân thanh tịnh, nếu không xét kỹ chỗ phát tâm, đâu biết rõ đường lối thoát khổ.
Chúng ta dự vào pháp hội này, cần phải đầy đủ lòng tin chân thật. Nếu không có lòng tin chân thật, tuy ăn chay, niệm Phật, phóng sinh, tu phước, chỉ là người lành ở thế gian, duy hưởng phước báo cõi trời, người. Lúc hưởng phước vui thì tạo nghiệp, đã tạo nghiệp ắt phải rơi vào nẻo khổ. Dùng cái nhìn chân chính mà xét về điều này, chỉ hơn hạng Xiển-đề[3], Chiên-đà-la[4] một bước. Lòng tin như thế, đâu phải là chân thật!
Nói lòng tin chân thật nghĩa là:
- Thứ nhất phải tin:
Tâm, Phật và chúng sinh, cả ba không khác biệt. Ta là Phật chưa thành, đức Di-đà là Phật đã thành. Tánh giác không hai. Ta tuy điên đảo mê lầm, nhưng tánh giác chưa từng mất. Ta tuy nhiều kiếp luân chuyển, nhưng tánh giác chưa từng động. Nên nói:
Đừng xem thường người chưa ngộ,
Một niệm soi lại liền đồng với bản đắc[5].
- Thứ hai phải tin:
Ta là Phật lý tánh, Phật danh tự.
Đức Di-đà là Phật cứu cánh. Tánh tuy không hai nhưng ngôi vị thì cách xa như trời với vực. Nếu không chuyên niệm đức Phật ấy, cầu sinh về cõi Tịnh, ắt phải theo nghiệp lưu chuyển, chịu khổ vô cùng!
Đây gọi là Pháp thân lưu chuyển trong năm đường[6], chẳng gọi là Phật mà gọi là chúng sinh.
- Thứ ba phải tin:
Ta dù nghiệp sâu chướng nặng, sống lâu nơi cảnh khổ, vẫn là chúng sinh trong tâm Phật Di-đà. Phật Di-đà tuy muôn đức trang nghiêm ở xa ngoài mười muôn ức cõi, cũng là đức Phật trong tâm chúng ta. Đã là tâm tánh không hai, tự nhiên đạo cảm ứng qua lại. Sự thiết tha của ta ắt có thể cảm. Lòng từ bi của Phật ắt có thể ứng. Như đá nam châm hút sắt, việc nầy không thể nghi ngờ. Đây gọi là:
Phật nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con.
Con nếu nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì mẹ con dù trải qua nhiều đời cũng chẳng xa nhau.
Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật, niệm Phật, trong hiện tại, tương lai nhất định sẽ thấy Phật, cách Phật không xa.
Đủ lòng tin chân thật như trên, dù chút phước điểm lành như hạt bụi mảy lông, đều có thể hồi hướng Tây Phương trang nghiêm Tịnh độ. Huống chi trì trai giữ giới, bố thí, phóng sinh, tụng kinh điển Đại thừa, cúng dường Tam Bảo, tu các hạnh lành, lẽ nào không đủ làm tư lương Tịnh độ sao?
Chỉ e lòng tin không chân thật, mới khiến đắm chìm nơi hữu lậu. Cho nên, trong việc tu hành hiện nay, không có bí quyết gì khác, chỉ trong hai mươi bốn giờ củng cố thêm ba niềm tin chân thật này thì tất cả sự thực hành không phiền phải sửa đổi!
Nếu muốn bỏ môn này để bàn luận công phu huyền diệu khác thì những bậc Tông sư ở các nơi rất nhiều, đạo tràng ở khắp mọi nơi hãy tìm đến thưa hỏi, chẳng cần phải dừng chân nơi Liên Xã này.
Nếu quả thật tâm danh lợi đã hết hẳn, chí nguyện chung đồng, thời tiết nhân duyên hân hạnh cùng nhau thường hội tụ. Sớm chiều niệm Phật, trọn ngày sáu thời trì danh. Xưa nay như thế, nếp cũ vẫn còn chưa mất. Mới mong đời sau làm nhịp cầu thân cận dẫn dắt nhau tu hành, kiếp này làm phương tiện giúp đỡ cùng chung tiến bước.
Mong rằng chúng ta ai nấy đều cố gắng!
*
[1] Niệm Phật Tam-muội: Tam-muội lấy niệm Phật làm nội dung quán tưởng, cũng là một loại Tam-muội quán niệm công đức của chư Phật hoặc xưng niệm danh hiệu chư Phật.
Niệm Phật Tam-muội có hai loại:
- Nhân hành niệm Phật Tam-muội: có ba thứ là quán tướng hảo của Phật, quán Thật tướng pháp thân và xưng danh niệm Phật.
- Quả thành niệm Phật Tam-muội: ba loại nhân hành đã nói trên được thành tựu.
[2] Liên Xã: hội đoàn Bạch Liên lấy sự niệm Phật làm tông chỉ tu hành, bắt nguồn từ việc lập hội niệm Phật của ngài Huệ Viễn đời Đông Tấn. Năm 384 đời Đông Tấn, ngài Huệ Viễn vào Lô Sơn ở chùa Đông Lâm, Hổ Khê. Tăng tục khắp nơi nghe tiếng Ngài đồng vân tập đến cầu đạo.
Tháng 07 năm 402, có 123 người gồm các vị Huệ Vĩnh, Huệ Trì, Đạo Sâm, Lưu Di Dân, Tông Bính, Lôi Thứ Tông… cùng nhau thiết trai trước tượng Phật Vô Lượng Thọ thờ ở đài Bát-nhã chùa Đông Lâm, đồng thệ nguyện lập hội niệm Phật chuyên tu Niệm Phật Tam-muội để cầu vãng sinh Tây Phương. Do ao trong chùa có trồng nhiều hoa sen trắng, hơn nữa, hội đoàn lại nguyện cầu về nước hoa sen nên hội lấy tên là Bạch Liên Xã.
Sau đó, người theo tu học ngày càng đông dần, mở đầu cho Tịnh độ giáo phát triển. Cuối đời Đường, đầu đời Tống, Tịnh độ giáo rất thịnh hành. Những người đồng chí hướng cùng lập đạo tràng Tịnh độ siêng tu Tịnh nghiệp, tất cả đều tôn ngài Huệ Viễn là vị Tổ đầu tiên của Liên Xã. Niệm Phật Liên Xã lấy kinh Bát Chu Tam-muội làm tư tưởng chủ đạo, lấy việc thấy Phật vãng sinh làm mục đích.
Đến năm 1308, đời Nguyên, Liên Xã bị ngăn cấm. Lúc bấy giờ, ngài Ưu Đàm Phổ Độ (? - 1330) ở chùa Đông Lâm dâng lên vua bộ Lô Sơn Liên Tông Bảo Giám (10 quyển) để làm sáng tỏ yếu chỉ của Liên Tông; do đó vua mới bãi bỏ lệnh cấm và phong cho Ngài làm giáo chủ. Trải qua các triều Minh, Thanh đến nay vẫn còn những người lập hội niệm Phật. Phong trào lập hội niệm Phật cũng lan truyền đến Nhật Bản, Triều Tiên và rất thịnh hành.
[3] Xiển-đề: là người mất hết căn lành, không có lòng tin đối với Phật pháp, khó có điều kiện để giác ngộ.
[4] Chiên-đà-la: là giai cấp thấp nhất trong xã hội Ấn Độ, chuyên làm những nghề lính ngục, buôn bán, mổ giết, săn bắn, câu cá…
[5] Bản đắc: chỉ cho tâm sáng suốt thanh tịnh vốn sẵn có của tất cả chúng sinh.
[6] Năm đường: chỉ cho Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, Nhân và Thiên.