Pháp Môn Tịnh Độ
Pháp quán tướng bạch hào của Phật
Pháp quán tướng bạch hào của Phật
Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói: “Nếu người muốn sinh về Tây Phương Tịnh độ thì nên quán tượng Phật một trượng sáu ở trên hồ nước”. Lại chép: “Tướng tốt trên thân rất nhiều, không thể quán khắp hết, nên cần phải quán một tướng mà thôi. Đó là chuyên tâm quán tướng lông trắng, hễ quán thành thục, thì các tướng còn lại sẽ tự nhiên hiển hiện”. Lông trắng đó dài một trượng rưỡi, xoáy tròn chu vi năm tấc, bên ngoài có tám cạnh, bên trong rỗng thông như ống thủy tinh. Vị trí của lông này nằm ngay giữa hai chặng mày, biểu thị cho lý Trung đạo. Lông ấy mềm mại, uyển chuyển xoáy vòng theo phía phải, trắng như ngọc, sáng sạch trong suốt, ánh chiếu đến toàn thân sắc vàng ròng của đức Phật. Khi quán tưởng, tâm phải an trú kiên cố. Nếu tâm hôn mê tán loạn, liền chế phục khiến tâm trở lại sáng suốt, lặng lẽ. Bởi vì sáng suốt thì không mê muội; lặng lẽ thì không tán loạn. Nên biết, sáng suốt lặng lẽ chính là kết quả của Chỉ Quán. Thể tánh Định Tuệ cũng chính là bản thể của tâm. Chỉ Quán là công phu, Định Tuệ là nhân hạnh, sáng suốt lặng lẽ là kết quả. Sáng suốt lặng lẽ đến tột cùng thì liền hợp với bản thể. Nếu đạt đến quả vị cao tột, tức thành tựu phước trí trang nghiêm. Thân tâm đã được tịch định, đó là Chỉ; quán tưởng tướng bạch hào của Phật, đó là Quán; tướng bạch hào hiển bày rõ ràng đó là sáng suốt; trụ tâm kiên cố không động, đó là lặng lẽ, nghĩa là nương nơi thân tướng đức Phật mà huân tập tâm tánh của mình. Nếu trí quán thành thục, tự nhiên sẽ hiện bày chính là nghĩa này vậy. Nhưng muốn tu tập pháp quán này, trước hết cần phải hiểu rõ vạn pháp đều do tâm. Kinh dạy: “Tâm như họa sĩ giỏi, tạo các thân năm ấm; tất cả pháp thế gian, thảy đều do tâm tạo”. Do đó, nên biết rằng tướng bạch hào của đức Phật A-di-đà vốn đầy đủ nơi tâm ta, những tướng hiện ra trong định cũng đều từ tâm ta biến hiện. Tâm ấy làm tướng bạch hào, tấm ấy tướng bạch hào, không từ nơi khác mà có, không phải tìm cầu bên ngoài mà được. Hiểu được như thế mới gọi là tu quán đúng pháp.

Tóm lại, Trí hay quán là Nhất tâm tam quán[1]; còn tướng lông trắng được quán là Nhất cảnh tam đế[2]. Vì sao? Vì tướng lông trắng trong định tuy hiện ra trước mắt, nhưng đều do tưởng niệm mà có, không phải tướng thật, tánh thật. Pháp được sinh ra do nhân duyên này vốn không có tự tánh, không có tha tánh, không có cộng tánh, không phải không có nhân tánh. Bốn tánh đều không, cho nên không có thật tánh. Tướng bạch do quán tưởng mà có này không chỉ tánh không mà tướng cũng không, như bóng trong gương, như trăng dưới nước, nên không có thật. Tánh tướng đều không thật, nên ngay nơi không tức là chân; tùy theo niệm mà thấy, nên ngay nơi giả tức là tục. Ngay nơi giả tức là tục, nên chẳng phải chân, chẳng phải không; ngay nơi không tức là chân, nên chẳng phải tục, chẳng phải giả. Như thế, khởi một niệm đồng thời phá dẹp chấp trước và chiếu soi (già chiếu), lìa tức là lìa chẳng phải, lìa tức là mà chẳng phải tức là, cho nên đó là cảnh quán Trung đạo không thể nghĩ bàn tam nhất viên dung. Toàn đế khởi quán, quán trở lại chiếu soi đế. Cảnh và quan không hai, chỉ là một tâm. Cho nên, người xưa có bài tụng:

Cảnh là diệu giả, quán là không,

Cảnh quán đều không tức là Trung.

Bạch chiếu, trước sau chưa từng có

Nhất tâm dung hợp, vết không còn.

Văn trong bài tụng này quá vắn tắt, nên cần phải giải thích sơ lược. Nói “cảnh là diệu giả”, tức chỉ cho cảnh có đủ không và trung ở trong đó. Nếu chẳng có không và trung thì đâu được gọi là diệu giả? Nói “quán là không”, tức diệu không mà có đầy đủ trung và giả ở trong đó. Nói “cảnh quán đều không”, tức đã có song chiếu ở trong đó. Đều không tức chẳng phải không, chẳng phải giả; song chiếu là ngay nơi không tức là giả. Không dính mắc hai bên, nhưng cũng không lìa hai bên, cho nên gọi là Trung đạo. Hai câu dưới thì nói bạch chiếu đồng thời nhất tâm dung hợp. Vì cảnh tuy đủ ba, nhưng thuộc về cảnh được quán, nên chỉ gọi là diệu giả. Quán tuy đủ ba, nhưng thuộc về quán của trí hay quán, nên chỉ gọi là diệu không. Cảnh và quán, tuy mỗi thứ đều đủ cả ba, nhưng đã dùng diệu quán song vong song chiếu, nên thầm hợp với diệu cảnh song phi song tích. Nhưng diệu trung này, do đưa ra một tức đủ cả ba, nói đến ba tức là một. Ba và một chẳng đồng, ba và ba chẳng khác. Không thể dùng ý thức để suy lường, không thể dùng ngôn ngữ để phân biệt, cho nên nói “bạch chiếu, trước sau chưa từng có; nhất tâm dung hợp, vết không còn”. Lý nhiệm mầu cảnh quán viên dung này, chỉ dùng bốn câu kệ tóm thâu trọn vẹn. Thấu rõ bài kệ nhiệm mầu này hơn đọc cả mấy trăm quyển sách của tông Thiên Thai. Nhưng nếu chẳng phải người hiểu rõ lý nhất tâm, thấu triệt giáo nghĩa tông Thiên Thai, e rằng không dễ gì thông đạt được. Kinh chép rằng: “Chỉ nghe được danh từ bạch hào, cũng diệt được vô lượng tội”, huống gì chuyên tâm hành trì đúng pháp. Pháp này chính đức Phật Thích-ca chỉ dạy, ngài Trí Giả ân cần khuyên bảo chuyên tu, gần đây chỉ có Hòa thượng U Khê thường tu tập. Nay, người tu Tịnh nghiệp nếu có thể nhất tâm trì danh hiệu Phật, thì bảo đảm được vãng sinh; lại kết hợp tu diệu quán này, nhất định sẽ đạt được phẩm cao, bậc thượng sĩ căn cơ lanh lợi, sao không dốc sức mà hành trì?

 

(Dịch xong tháng 10 năm 2002).

 

*

*          *



[1] Nhất tâm tam quán: là nơi một tâm niệm mà có thể quán xét trọn vẹn Tam đế, nghĩa là quán một tâm niệm từ đâu đến? Đi về đâu? Rốt ráo không có, thanh tịnh như hư không nên gọi là quán Không. Trí hay quán, cảnh được quán, rõ ràng phân minh, gọi là quán Giả. Tuy bản tánh vốn tự rỗng không, không mà chẳng cố định là không, Giả mà chẳng cố định là Giả, gọi là quán Trung. Ngay ba mà một, ngay một mà ba, đó gọi là Nhất tâm tam quán.

[2] Nhất cảnh tam đế: nghĩa là tam đế Không, Giả, Trung dung nhau nơi một tâm, đây là thuyết Viên Giáo của tông Thiên Thai.

Sách cùng thể loại
Niệm Phật Luận
Niệm Phật Luận
Đại Sư Thái Hư
Ấn Quang đại sư gia ngôn lục
Ấn Quang đại sư gia ngôn lục
Như Hòa
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà
Thích Pháp Đăng
Những điều căn bản về pháp môn Tịnh Độ & trợ niệm lúc lâm chung
Những điều căn bản về pháp môn Tịnh Độ & trợ niệm lúc lâm chung
Thích Tâm Hoà
Tịnh Độ Hoặc Vấn
Tịnh Độ Hoặc Vấn
HT. Thích Thiền Tâm
Tây Phương Yếu Quyết
Tây Phương Yếu Quyết
Thích Nguyên Chơn