
Tịnh Độ Cảnh Ngữ
Tóm lại, Trí hay quán là Nhất tâm tam quán[1]; còn tướng lông trắng được quán là Nhất cảnh tam đế[2]. Vì sao? Vì tướng lông trắng trong định tuy hiện ra trước mắt, nhưng đều do tưởng niệm mà có, không phải tướng thật, tánh thật. Pháp được sinh ra do nhân duyên này vốn không có tự tánh, không có tha tánh, không có cộng tánh, không phải không có nhân tánh. Bốn tánh đều không, cho nên không có thật tánh. Tướng bạch do quán tưởng mà có này không chỉ tánh không mà tướng cũng không, như bóng trong gương, như trăng dưới nước, nên không có thật. Tánh tướng đều không thật, nên ngay nơi không tức là chân; tùy theo niệm mà thấy, nên ngay nơi giả tức là tục. Ngay nơi giả tức là tục, nên chẳng phải chân, chẳng phải không; ngay nơi không tức là chân, nên chẳng phải tục, chẳng phải giả. Như thế, khởi một niệm đồng thời phá dẹp chấp trước và chiếu soi (già chiếu), lìa tức là lìa chẳng phải, lìa tức là mà chẳng phải tức là, cho nên đó là cảnh quán Trung đạo không thể nghĩ bàn tam nhất viên dung. Toàn đế khởi quán, quán trở lại chiếu soi đế. Cảnh và quan không hai, chỉ là một tâm. Cho nên, người xưa có bài tụng:
Cảnh là diệu giả, quán là không,
Cảnh quán đều không tức là Trung.
Bạch chiếu, trước sau chưa từng có
Nhất tâm dung hợp, vết không còn.
Văn trong bài tụng này quá vắn tắt, nên cần phải giải thích sơ lược. Nói “cảnh là diệu giả”, tức chỉ cho cảnh có đủ không và trung ở trong đó. Nếu chẳng có không và trung thì đâu được gọi là diệu giả? Nói “quán là không”, tức diệu không mà có đầy đủ trung và giả ở trong đó. Nói “cảnh quán đều không”, tức đã có song chiếu ở trong đó. Đều không tức chẳng phải không, chẳng phải giả; song chiếu là ngay nơi không tức là giả. Không dính mắc hai bên, nhưng cũng không lìa hai bên, cho nên gọi là Trung đạo. Hai câu dưới thì nói bạch chiếu đồng thời nhất tâm dung hợp. Vì cảnh tuy đủ ba, nhưng thuộc về cảnh được quán, nên chỉ gọi là diệu giả. Quán tuy đủ ba, nhưng thuộc về quán của trí hay quán, nên chỉ gọi là diệu không. Cảnh và quán, tuy mỗi thứ đều đủ cả ba, nhưng đã dùng diệu quán song vong song chiếu, nên thầm hợp với diệu cảnh song phi song tích. Nhưng diệu trung này, do đưa ra một tức đủ cả ba, nói đến ba tức là một. Ba và một chẳng đồng, ba và ba chẳng khác. Không thể dùng ý thức để suy lường, không thể dùng ngôn ngữ để phân biệt, cho nên nói “bạch chiếu, trước sau chưa từng có; nhất tâm dung hợp, vết không còn”. Lý nhiệm mầu cảnh quán viên dung này, chỉ dùng bốn câu kệ tóm thâu trọn vẹn. Thấu rõ bài kệ nhiệm mầu này hơn đọc cả mấy trăm quyển sách của tông Thiên
(Dịch xong tháng 10 năm 2002).
*
* *
[1] Nhất tâm tam quán: là nơi một tâm niệm mà có thể quán xét trọn vẹn Tam đế, nghĩa là quán một tâm niệm từ đâu đến? Đi về đâu? Rốt ráo không có, thanh tịnh như hư không nên gọi là quán Không. Trí hay quán, cảnh được quán, rõ ràng phân minh, gọi là quán Giả. Tuy bản tánh vốn tự rỗng không, không mà chẳng cố định là không, Giả mà chẳng cố định là Giả, gọi là quán Trung. Ngay ba mà một, ngay một mà ba, đó gọi là Nhất tâm tam quán.
[2] Nhất cảnh tam đế: nghĩa là tam đế Không, Giả, Trung dung nhau nơi một tâm, đây là thuyết Viên Giáo của tông Thiên