
Tịnh Độ Cảnh Ngữ
Thử bình tâm mà xét, chẳng lẽ các sớ giải không có chỗ hay của nó? Tuy nhiên, không sơ thất ở chỗ sai lầm và trái ngược thì lại sơ thất ở chỗ thô vụng giản lược. Nhưng vẫn có những vị trí thức cao siêu hơn người, dựa vào kinh này để phát huy những lý luận mới mẻ nơi tâm mình. Trong những bản chú giải thật sự bỏ đi ý riêng, thuận theo kinh, phù hợp ý Phật thì ngoài bản sớ giải của ngài Tây Hồ Giám ra, tôi chưa thấy bản nào hay bằng được; ai bảo người thời nay quyết chẳng thể vượt hơn thời xưa? Rất có thể có người trách Ngài chủ ý thái quá, hoặc chê rằng không có chỗ y cứ; cho dù bản sớ giải của Ngài chưa thể hoàn toàn không có điểm nào đáng chê trách, đó là bản sớ giải có công rất lớn đối với kinh này. Còn như thuyết “bỏ thức dùng căn, chú trọng viên thông” chính là lời chân thành của chư Phật, ai dám chẳng tin? Thể thức giáo hóa ở phương này ai dám chẳng tuân theo? Lại luận bàn điều ấy chính là trái kinh chống Phật vậy.
Hiện tại, các thiện hữu đã chú tâm vào Tịnh độ, lại muốn nghiên cứu kinh này thật là đáng quý. Chẳng luận đến phần trước hay phần sau, chỉ ngay nơi chương Viên Thông này đã có những điểm dễ gây lầm lẫn lớn. Nếu chẳng khéo đọc, khéo hiểu thì gọi là đề hồ biến thành độc dược cũng chẳng xa chi lắm. Chẳng lẽ các vị chưa từng nghe nói “trong trường tuyển Phật trên hội Lăng-nghiêm, ngài Quán Thế Âm đăng khoa, ngài Thế Chí thi trượt” đó ư? Đối với thuyết ấy, nếu người tu Tịnh độ chẳng khéo phân biệt nhận định, sao có thể phát huy được ý sâu kín của kinh này? Sao có thể giữ cho hạnh nguyện của người học sau này được vững chắc?
Chỉ vì pháp môn của ngài Thế Chí chẳng phải là nghĩa lý chính yếu của kinh này, nên trong bản sớ giải của ngài Tây Hồ Giám cũng có nêu nhưng không phát huy. Nay tôi sẽ nói rõ về pháp môn trước, sau đó tỏ bày nghĩa lý sâu kín.
a. Nói rõ về pháp môn:
Nên biết pháp Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí thuộc về Căn đại trong Thất đại, vì nhiếp trọn sáu căn. Nương vào sáu căn để tu Niệm Phật Tam-muội, có ba thứ khác nhau: một là niệm Phật chính mình, hai là niệm Phật khác, ba là niệm Phật chính mình và Phật khác.
* Nếu niệm Phật chính mình thì đồng
với môn Viên Thông của các bậc Thánh khác: lấy căn tánh làm pháp môn được niệm, lấy sự quay trở về tánh lặng trong làm phương tiện hay niệm, như kinh Ương Quật dạy: “Nhãn căn của người kia thường đầy đủ chẳng giảm tu, thấy rõ ràng rành rẽ ở nơi các đức Như Lai… Ý căn của người kia thường đầy đủ chẳng giảm tu, biết rõ ràng rành rẽ ở nơi các đức Như Lai”. Cũng giống như trong kinh này, mười phương chư Phật cùng bảo A-nan: “Ông muốn mau chứng an lạc giải thoát tịch tĩnh diệu thường thì chỉ do nơi sáu căn của ông, chớ chẳng phải cái gì khác nữa”.
Lại như Tổ sư nói: “Ở trong thai gọi là thân, ở đời gọi là người, ở mắt gọi là thấy, ở tai gọi là nghe, nơi mũi phân biệt hương, nơi miệng thì đàm luận, nơi tay thì cầm nắm, nơi chân thì đi chạy. Người biết bảo đó là tánh Phật, kẻ chẳng hiểu gọi đó là linh hồn”. Từ trước, chư Tổ đã chỉ dạy những điều như trên rất nhiều. Môn Tam-muội Niệm Phật chính mình này bao gồm hết thảy giáo nghĩa, hết thảy pháp môn trực chỉ của Thiền tông, hoàn toàn không thiếu sót.
* Nếu niệm Phật khác thì chẳng đồng với môn Viên Thông của các bậc Thánh: dùng sáu căn làm chỗ hay niệm, lấy quả vị Phật làm nơi được niệm. Tuy Pháp thân được niệm ấy vốn cùng một thể với ta, nhưng ta không có hai thứ trang nghiêm. Chư Phật phước trí tròn đầy, thành Lưỡng Túc Tôn. Niệm quả đức của Phật chẳng sinh mỏi chán, mắt thường chiêm ngưỡng tướng tốt của Phật, tai thường nghe lời dạy của Phật, mũi thường ngửi hương Phật, lưỡi thường xưng danh hiệu Phật, thân thường lễ tượng Phật, ý thường nghĩ nhớ pháp Phật. Sáu căn hoàn toàn chuyên chú vào cảnh Phật, như thế liên tục không gián đoạn, không xen tạp. Môn Tam-muội Niệm Phật khác này bao gồm hết thảy các kinh Di-đà, Dược Sư, Di-lặc Thượng sinh… và tất cả nghiệp hạnh, pháp môn quán tưởng (về sự tướng) trong Liên Xã hoàn toàn không thiếu sót.
* Nếu niệm Phật chính mình và Phật khác thì vừa giống như các môn Viên Thông lại vừa khác biệt. Trước hết phải khai mở sự hiểu biết trọn vẹn nhanh chóng, biết rõ chúng sinh và Phật như nhau, tâm và cõi nước chẳng hai, nương nhờ y báo, chánh báo của đức Phật A-di-đà để hiển lộ tâm tánh mình. Đã chẳng mê lầm ngoài tánh có Phật, cũng chẳng chấp cõi kia chẳng phải là tâm. Đó là chỗ “khai mở sự hiểu biết trọn vẹn nhanh chóng” giống với các môn Viên Thông khác. Còn điểm khác biệt là phải nương nhờ vào hoàn cảnh nơi cõi nước Cực Lạc, kinh Quán Vô Lượng Thọ gọi là phương tiện thù thắng lạ kỳ. Ở đây, kinh Lăng-nghiêm nói: “Chẳng nhờ phương tiện, tự được tâm khai ngộ”, do phương tiện tối thắng lạ kỳ này nên chẳng nhờ phương tiện nào khác nữa.
Nay, đem ba thứ Niệm Phật Tam-muội trong giáo lý Viên đốn so với bốn loại Tịnh độ để nói sơ lược về công dụng rộng lớn của sự nhiếp thọ chúng sinh:
Chỉ niệm Phật chính mình thì nhiếp về hai cõi Tịnh độ Thật Báo và Tịch Quang, nhưng chỉ có thể chứng nhập theo chiều dọc, chẳng thể vượt thoát ba cõi theo chiều ngang. Môn này chỉ có thể độ hàng căn cơ lanh lợi, chẳng thể tiếp độ cùng khắp. Hơn nữa, môn này đồng với môn Viên Thông của các bậc Thánh nên chẳng thể tỏ rõ tánh cách lạ lùng độc đáo, dường như chẳng phải là bản ý tiếp độ chúng sinh trở về của Bồ-tát Thế Chí.
Nay nói chính là thâu nhiếp hai hạng người tu môn niệm Phật khác và niệm Phật chính mình cùng Phật khác về nơi Tịnh độ Đồng Cư, đồng thời lại vượt thẳng lên cõi Phương Tiện, Thật Báo, Tịch Quang. Vì thế, kinh văn giảng sâu xa về lợi ích cảm ứng đạo giao.
b. Trình bày ý sâu kín của kinh:
Chọn lựa pháp Viên Thông giống như quốc gia dụng binh tuyển tướng: hoặc đưa lên làm tiên phong, hoặc đẩy xuống làm đoạn hậu. Cử người tiên phong, cắt người đoạn hậu là chánh, ngoài ra các người khác đều theo đội quân thông thường mà thôi. Việc đưa lên và đẩy xuống chẳng phải vô cớ mà làm.
Như trong mười tám giới[2], trước hết là Căn, kế đến là Trần, sau cùng là Thức, đó là lệ thường. Nay kinh này đặt sáu trần ra trước, đặt Căn tiếp theo đó. Trong sáu trần, trước hết là Sắc, tiếp đó là Thanh cho đến Hương, Vị, Xúc, Pháp; nay kinh này nêu Thanh đầu tiên, kế đến là Sắc. Trong sáu căn chỉ nêu năm căn, đem Nhĩ căn đặt sau hai mươi bốn môn Viên Thông, là vì thể thức giáo hóa chân thật ở phương này được trong sáng thanh tịnh nơi âm thanh và cái nghe. Vì thế, dùng âm trần (tức Thanh trần) để mở đầu, xếp Căn nghe vào cuối cùng nhằm riêng biệt trình bày tận tường về điều ấy. Tuy chẳng nói rõ nguyên do, nhưng mọi người đều biết rõ là đã chú trọng môn Viên Thông nơi Nhĩ căn. Yếu chỉ toàn kinh, cách thức liệt kê các pháp môn Viên Thông, lẽ đương nhiên phải như vậy.
Song, pháp môn niệm Phật cũng thích hợp với căn cơ ở phương này, chúng sinh đời mạt pháp phải nhờ niệm Phật để được độ thoát; như kinh này chỉ khuyên dùng một môn để tiến sâu vào, hiểu rõ thẳng nơi tự tánh. Nếu chọn lấy cả hai môn sẽ khiến ý kinh bị mờ mịt. Nếu xếp lẫn pháp môn niệm Phật vào các đội quân thường thì lại đánh mất ý nghĩa được khen ngợi rộng rãi trong các kinh khác. Bởi thế, Phật khéo bày phương tiện đưa lên và hạ xuống như mật lệnh trong quân đội chưa cho tiết lộ.
Vì thế, trong mười tám giới, kinh rút lấy Nhĩ căn làm viên tướng quan trọng, nhưng trong Thất đại lại ngầm chọn Căn đại làm trọng tướng. Mà Căn đại vốn thuộc về pháp môn niệm Phật nên đã không trái với tông chỉ khen ngợi rộng rãi trong các kinh khác, mà cũng chẳng nghịch ý nghĩa của Căn được dùng trong kinh này; có thể nói cực kỳ khéo léo, lại vừa cực kỳ sâu kín!
Thất đại theo thứ tự là Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Kiến, Thức. Kiến chính là cội gốc của các căn, lẽ ra Căn trước, Thức sau. Nay dời Thức vào vị trí thứ sáu, đặt Căn đại chót hết, cũng như xếp Nhĩ căn ở cuối Thập bát giới. Hơn nữa, trong năm đại trước, lấy Hỏa đại làm tiên phong, xếp Địa, Thủy, Phong, Không tiếp theo sau. Ở đây là có hai ý:
* Một là vì đương cơ rơi vào việc dâm mà nói ra giáo pháp nên dùng (hình ảnh) đa dâm chuốc lấy lửa hừng để cảnh tỉnh người nghe nhiều trước hết phải trừ dục lậu. Vì thế, trong kinh nói: “Người đa dâm (dâm ý) biến thành đống lửa cháy hừng hực, cho đến biến tâm đa dâm thành lửa trí tuệ. Chư Phật đặt tên cho tôi là Hỏa Đầu, tôi do sức Hỏa Quang Tam-muội mà thành A-la-hán, nguyện làm lực sĩ đích thân hàng phục ma oán”… rõ ràng để răn nhắc điều đó. Trong hết thảy kinh luật đều lấy giới không sát sinh làm đầu, kinh này thì lấy sự không dâm dục làm lời dạy rõ ràng quyết định bậc nhất. Trong ba duyên cũng lấy tham dục đặt trước giết hại và trộm cắp, đều là ý này.
* Hai là đối trị nghiệp chướng sâu nặng của chúng sinh trong đời mạt pháp. Bởi lẽ phiền não tuy nhiều, nhưng chỉ có dâm dục là cội gốc của sự sinh tử, là pháp gây chướng ngại vãng sinh nhất. Vì thế, Phật dạy người tu hành quán xét lửa dâm dục trong thân phàm phu chính là ngọn lửa chân thật rỗng không nơi Tánh Như Lai tạng, theo nghiệp mà biểu hiện. Quán sát sâu xa thì được tỏ ngộ, lửa dâm ấy thành ánh sáng trí tuệ, chẳng những không chướng ngại vãng sinh mà còn đưa người tu vượt lên Thượng phẩm. Bởi thế, ngài Duy-ma khen ngợi dâm nộ si, do vì tánh của chúng chính là Tánh Như Lai tạng, nhưng công dụng nhiễm tịnh của chúng chỉ trong khoảng úp ngửa bàn tay mà thôi. Vì thế, ngài Hỏa Đầu được đặt trước tiên (trong số Thánh chúng trần thuật pháp Viên Thông về Thất đại); cũng như ngài Trần Na (đứng đầu) trong Thập bát giới.
Xin hãy xem kỹ phần kinh văn tường thuật pháp Viên Thông của các bậc Thánh, trừ hai vị trọng tướng tiên phong ấy, ngoài ra đều y theo thứ tự thông thường chẳng xáo trộn, điều này có thể thấy được. Khi hai mươi lăm vị Thánh từ chỗ ngồi đứng lên lúc các vị đại đệ tử kết tập, mỗi một oai nghi, một hành động đứng ngồi đều có thâm ý, đều phù hợp giáo nghĩa. Dùng cái tâm thô thiển sao có thể lãnh hội được?
Thế thì, tuy một mình Bồ-tát Quán Thế Âm thi đỗ, lẽ nào ngài Thế Chí thi trượt hoàn toàn? Chỉ là Quán Âm thì được tuyển rõ ràng, còn Thế Chí thì tuyển ngầm mà thôi. Bởi vì vào riêng Nhĩ căn Viên thông cho nên tuyển chọn rõ ràng; vì thâu nhiếp chung cả sáu căn nên ngầm tuyển pháp niệm Phật. Vì thể thức giáo hóa ở phương này được rõ ràng là nhờ âm thanh và cái nghe nên tuyển rõ; vì cõi này có duyên nên ngầm tuyển. Khi có ích chung cho đương cơ thì phù hợp với chúng sinh thời hiện tại và vị lai, vì thế nên tuyển rõ. Có ích riêng cho chúng sinh đời ác lúc mạt pháp, chẳng được thấy Phật nên ngầm tuyển. Bảng hổ nêu cao ai nấy đều biết; áo đỏ chấm điểm ngầm nào ai biết đến.Vì thế mới nói “có điểm gây lầm lẫn lớn, cần phải khéo đọc khéo hiểu”.
Nếu có người bảo: “Đã là ý sâu kín sao lại tiết lộ? Trường thi tuyển Phật, Lăng-nghiêm yết bản đã hai ngàn năm rồi; nếu lúc ấy chẳng soi thấu được ý nghĩa sâu kín làm sao dùng được?”. Hoặc có người bảo: “Nếu đúng như lời ông nói thì lúc ngài Văn-thù nói kệ chọn lựa, lẽ nào Ngài cũng chẳng biết ý sâu kín, sao chẳng tuân theo lệ trên chọn hết tất cả?”.
Đáp: Các bậc Thánh khi trình bày chỗ Viên Thông đều nói là bậc nhất, nên phải mượn cách nâng lên hạ xuống khéo chỉ cơ sâu kín. Nếu lúc ngài Văn-thù vâng lệnh Phật tuyển chọn, cứ một mực y theo lệ trên thì làm sao trở thành ý nghĩa sâu kín? Nhưng chỉ có Thanh trần và Hỏa đại vẫn theo thứ tự thông thường. Vì hai môn này với ý riêng trợ giúp hiển bày chẳng phải là chỗ trở về trọng yếu, cho nên không nêu ra nữa. Ngay như pháp môn của ngài Thế Chí, theo mạch văn trường hàng đặt nằm sau phần nói về Thức đại, thành pháp cuối cùng trong hai mươi bốn môn Viên Thông, đâu không tuân theo thứ tự.
Phật đã dạy chọn lấy một môn, sao Bồ-tát Văn-thù chẳng chọn lấy môn của ngài Thế Chí? Xem lời Ngài phê bình pháp Viên Thông của ngài Thế Chí cũng khác với chư Thánh, Ngài chỉ nói: “Nay cảm nhân quả khác nhau, làm sao đạt Viên Thông?”. Ý nói: dù nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, nhưng cái niệm tiếp nối ấy thuộc về Hành uẩn đổi dời, cũng là pháp sinh diệt, nhưng dùng đấy làm cái nhân để vãng sinh thấy Phật, ai bảo là không được! Nay, muốn chứng Viên Thông không sinh diệt ngay trong hiện tại thì nhân quả chẳng phù hợp, làm sao đạt được? Lời phê phán ấy nhắm vào việc chứng đạt Viên Thông trong hiện tại thì khó, chớ không luận về lợi ích sau khi vãng sinh.
Ngoài ra, chư Thánh chỉ niệm Phật chính mình là thuộc về tu chứng ngay hiện tại, nên ngài Văn-thù gạt bỏ hoàn toàn, vì những pháp ấy chẳng phù hợp với căn cơ cõi này, chẳng xứng hợp với thể thức giáo hóa ở phương này. Ai có chí tu chứng cũng nhân đây mà suy xét kỹ!
Đây là vì những người sức mạnh lòng tin chưa kiên cố mà nói, còn nếu ai tin tưởng Tịnh độ sâu sắc thì dù kinh Lăng-nghiêm chỉ chê mình Bồ-tát Thế Chí, người ấy cũng chẳng ngờ vực gì. Vì sao vậy? Vì các kinh đều khen ngợi rộng rãi như “công đức chẳng thể nghĩ bàn”, hoặc là “pháp mà thế gian khó tin”, hoặc “hết thảy chư Phật hộ niệm”, hoặc “thiền sâu mầu vô thượng”, hoặc “phương tiện thù thắng lạ lùng”, hoặc “vua các Tam-muội”, nhiều chỗ khen ngợi tột bậc như thế. Đã chẳng sinh lòng tin, chỉ có một chỗ chê bai sao liền nảy lòng ngờ?
Huống chi kinh Lăng-nghiêm chưa từng chê riêng pháp niệm Phật, lại còn bày tỏ đây là pháp tuyển ngầm! Đáng tiếc, chúng sinh đời mạt pháp đọc kinh này, đã chẳng thể y theo lời dạy từ Nhĩ căn thâm nhập để chứng Viên Thông ngay trong hiện đời, lại còn ưa khởi nghi hoặc đối với pháp môn niệm Phật, thậm chí phá hoại lòng tin trong sạch, chướng ngại hạnh lành của người khác. Kẻ trí mỏng phước ít thường quen thói như thế. Vì vậy, tôi nay phải y theo pháp nương kinh phân tích rõ ràng, chẳng tự biết là lời lẽ rườm rà, cũng là điều ngoài ý muốn thôi!
*
[1] Tứ y Đại sĩ: theo luận Niết-bàn nói gồm có: Bồ-tát Sơ địa, Lục địa, Bát địa, Thập địa.
[2] Mười tám giới: tức sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (có công năng phát sinh nhận thức); sáu cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (đối tượng của sự nhận thức) và sáu thức nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.