Pháp Môn Tịnh Độ
Trình bày sơ lược về chín phẩm
Trình bày sơ lược về chín phẩm
Một môn Tịnh độ, tuy thu nhiếp rộng rãi mọi căn cơ, đều lên địa vị Bất thối. Nhưng việc thấy Phật mau hay chậm, nghe pháp Đại thừa hoặc Tiểu thừa, chứng quả thọ ký sớm hay muộn, thật cách xa như trời với vực.

Kinh Vô Lượng Thọ chia làm ba hạng, chẳng bằng kinh Quán Vô Lượng Thọ chia làm chín phẩm rất tường tận. Nói chung:

* Thượng phẩm lấy giải ngộ làm căn bản.

* Trung phẩm lấy việc giữ giới và làm lành làm căn bản.

* Hạ phẩm thuần ác, không thiện, chỉ lúc lâm chung gặp bạn lành, một niệm phát sinh lòng tin, tiêu diệt lỗi lầm mà được vãng sinh.

Nay xin phân tích rõ ràng:

1. Thượng phẩm Thượng sinh:

Người đọc tụng kinh điển Đại thừa, thông suốt Tông (tâm tánh) và Thuyết (giáo lý), tu hành lục niệm[1], sự hiểu biết và thực hành phù hợp nhau cho nên trong khoảng thời gian khảy móng tay liền vãng sinh, thấy Phật nghe pháp, tỏ ngộ lý Vô sinh nhẫn[2], trong khoảnh khắc trải qua phụng sự chư Phật khắp mười phương, tự thân được thọ ký.

Về Tăng sĩ như các ngài Huệ Viễn, Trí Giả… về người thế tục như các ông Lưu Di Dân, Dương Vô Vi[3] đáng được dự vào phẩm này.

2. Thượng phẩm Trung sinh:

Người tuy chưa đọc tụng kinh điển Đại thừa mà có thể hiểu Đệ nhất nghĩa[4]. Do đó, bản thân cũng có ngộ nhập nhưng sự thực hành và quả chứng chưa bằng Thượng phẩm Thượng sinh. Cho nên, trải qua một đêm hoa nở thấy Phật, do vì sự huân tập của đời trước, nên nghe khắp cả các âm thanh đều thuyết Đệ nhất nghĩa đế sâu thẳm.

Qua bảy ngày thì được không thối chuyển đối với đạo giác ngộ chân chánh vô thượng. Sau đó, tu các môn chánh định Tam-muội, trải qua một tiểu kiếp[5] được chứng ngộ lý không sinh không diệt (vô sinh nhẫn).

3. Thượng phẩm Hạ sinh:

Người tuy chưa có sự ngộ nhập nhưng cũng phát tâm đạo vô thượng, tự mình muốn thấy rõ bản tánh, cuối cùng chưa toại chí, do đó cầu vãng sinh.

Trải qua bảy ngày thì thấy Phật, đến hai mươi mốt ngày mới nghe diệu pháp. Trải qua ba tiểu kiếp bước vào Hoan hỷ địa[6].

4. Trung phẩm Thượng sinh:

Người nam, người nữ tại gia có lòng tin thanh tịnh, trì giới cầu vãng sinh Tây Phương, lúc lâm chung thấy Phật được vãng sinh. Hoa sen liền nở, nghe thuyết giảng về pháp Tứ đế[7], tức khắc được đạo quả A-la-hán[8].

Do sức mạnh của việc giữ giới tinh chuyên nên hoa nở chứng quả rất mau. Vì chưa phát tâm đạo vô thượng nên chỉ nghe pháp Tứ đế, chứng được quả vị nhỏ mà thôi.

5. Trung phẩm Trung sinh:

Người nam nữ xuất gia trì giới cầu vãng sinh, một ngày một đêm giữ giới Sa-di, giới Tỷ-kheo. Vì hiển bày sự thù thắng của giới pháp nên tuy ở trong thời gian rất ngắn mà được vãng sinh, huống là trì giới lâu dài.

Song, người xuất gia giới hạnh tinh chuyên vẫn sinh về Trung phẩm Thượng sinh. Người tại gia tạm thời trì trai giới trong thời gian ngắn cũng sinh về Trung phẩm Trung sinh, có thể thông lẫn nhau.

Khi lâm chung, thấy Phật được vãng sinh. Trải qua bảy ngày hoa nở, thấy Phật nghe pháp, được quả Tu-đà-hoàn[9], sau đó trải qua nửa kiếp thì chứng quả A-la-hán.

6. Trung phẩm Hạ sinh:

Cũng là người nam nữ thế tục, thường ngày chưa quy hướng Tam Bảo nhưng có lòng nhân từ hiếu thảo, tiến bước trên đường đạo đức. Lúc sắp lâm chung, gặp thiện tri thức khai thị, liền được vãng sinh.

Sau bảy ngày, thấy hai vị Đại Bồ-tát Quán Âm và Thế Chí, người ấy nghe pháp được quả Tu-đà-hoàn, trải qua mười tiểu kiếp thành bậc A-la-hán.

7. Hạ phẩm Thượng sinh:

Người ác ở thế tục, lúc sắp lâm chung gặp thiện tri thức dạy xưng danh hiệu Phật, tiêu diệt tội lỗi, được vãng sinh.

Sau bảy ngày hoa nở, thấy hai vị Đại sĩ người ấy nghe thuyết giảng mười hai bộ kinh[10] thâm sâu, phát tâm đạo vô thượng, trải qua mười tiểu kiếp được vào Sơ địa.

8. Hạ phẩm Trung sinh:

Người ác xuất gia phá giới, lúc lâm chung gặp thiện tri thức khen ngợi Phật, thuyết pháp cho nghe chỉ trong một niệm được vãng sinh.

Trải qua sáu kiếp, hoa nở thấy hai vị Đại sĩ, người ấy nghe kinh điển thâm sâu về Đại thừa, phát tâm đạo vô thượng.

9. Hạ phẩm Hạ sinh:

Hạng người cực ác, gồm cả Tăng và tục tạo năm tội nghịch[11] và mười nghiệp ác[12]. Lúc sắp lâm chung, gặp thiện tri thức dạy xưng danh hiệu Phật, đầy đủ mười niệm được vãng sinh. Trải qua mười hai kiếp hoa nở, nghe hai vị Đại sĩ nói về Thật tướng của các pháp, liền phát tâm Bồ-đề.

Hai phẩm sau chưa nói số thời gian bước vào Sơ địa, cũng như Hạ phẩm Thượng sinh, sau mười tiểu kiếp mới phát tâm đạo vô thượng.

Ba phẩm Trung tuy lấy việc giữ giới làm lành cầu vãng sinh, tâm độ mình kiên cố nhưng hạnh độ người khiếm khuyết, nên rốt cuộc được Đại thừa mà phải tạm lên quả vị nhỏ.

Ba phẩm Hạ tuy là phàm phu cực ác, do nghe hai vị Đại sĩ thuyết pháp thâm sâu nên liền có thể phát tâm vô thượng. Tuy trải qua nhiều kiếp nhưng vào thẳng địa vị Thánh.

Thế thì một niệm rộng lớn hay nhỏ hẹp, chóng vượt quả vị nhỏ của Quyền thừa, một đời tinh tấn vượt xa nhiều kiếp. Thời gian mau chậm, thai sen lớn nhỏ, người phát tâm cố gắng tu hành nên xét kỹ điều mà mình đang thực hiện.

Người sau khi ngộ cầu vãng sinh, mượn cảnh duyên Cực Lạc dễ đoạn phiền não, tập khí, dễ tu Tam-muội, mau thành tựu sức an nhẫn để cứu độ các chúng sinh. Người chưa ngộ cầu vãng sinh vì thân cận Phật Di-đà nên dễ dàng thấy tánh, ngài Vĩnh Minh bảo rằng: “Chỉ thấy Phật Di-đà, lo gì chẳng được khai ngộ”, chính là ý này.

Hai môn Thiền Tịnh, mỗi môn nên chuyên hành trì không cần kiêm tu. Chỉ là, nếu có tướng kia đây thì chẳng phải thấu suốt ý chỉ của Phật. Người tham thiền chẳng luận ngộ cùng chưa ngộ, khi được vãng sinh đều lên Thượng phẩm. Người tu Tịnh tuy phạm năm tội nghịch, mười nghiệp ác mà biết sám hối còn được dự vào Hạ phẩm Hạ sinh, nhưng phải không phỉ báng Đại thừa. Vậy thì người phỉ báng chẳng được vãng sinh, nên biết điều ấy.

Người trước ngộ, sau nguyện vãng sinh như buồm lớn gặp gió xuôi. Người niệm Phật mà chê bai Thiền, như lấy hạt giống hư đem trồng nơi đất tốt. Tướng trạng hơn kém, sự quan hệ của được và mất cần phải phân biệt rõ.

*



[1] Lục niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Bố thí, niệm Thiên. Theo kinh Niết-bàn, chữ Thiên có ba hạng:

1. Sinh thiên, chư Thiên trong ba cõi.

2. Tịnh thiên, tất cả các bậc Hiền thánh trong ba thừa.

3. Đệ nhất nghĩa thiên chính là Niết-bàn.

[2] Vô sinh nhẫn: pháp nhẫn vô sinh, tức quán lý không sinh không diệt của các pháp, nhận kỹ lý ấy, an trụ tâm bất động. 

[3] Dương Vô Vi: người đời Tống, ở châu Vô Vi, hiệu là Vô Vi Tử. Thời thiếu niên thi đỗ được làm quan Thượng Thư Chủ Khách Lang, Đề Điểm Lưỡng Chiết Hình Ngục. Ông tôn sùng Phật pháp, tỏ ngộ Thiền tông, bảo rằng: “Căn cơ của chúng sinh có bén nhạy và chậm lụt, dễ hiểu dễ tu, chỉ có pháp môn Tịnh độ”. Ông từng viết lời tựa cho quyển Tịnh Độ Thập Nghi Luận và Tịnh Độ Quyết Nghi Tập, xiển dương pháp môn niệm Phật. Lúc về già, ông vẽ hình Phật A-di-đà cao một trượng sáu, thường mang theo bên mình để cúng dường, cảm đức Phật A-di-đà đến tiếp dẫn, ngồi ngay thẳng mà qua đời.

[4] Đệ nhất nghĩa: lẽ thật cùng tột hơn hết nên gọi bậc nhất. Đây là chỗ tự giác của trí huệ bậc Thánh, cảnh giới dứt bặt mọi đối đãi, rời ngôn ngữ, dứt tuyệt mọi sự nghĩ ngợi suy tư.

[5] Tiểu kiếp: thời gian rất lâu dài. Kinh Bồ-tát Anh Lạc Bản Nghiệp nói: “Như có một khối đá vuông vức bốn mươi dặm, mỗi ba năm một lần có một vị Thiên nhân Trường Thọ bay đến dùng áo trời rất mỏng phủi lên tảng đá ấy, cho đến khi nó mòn hết thì đó gọi là một tiểu kiếp”.

[6] Hoan hỷ địa: còn gọi là Sơ địa, là bậc đầu tiên trong mười địa vị (Thập địa). Vì mới chứng nhập tánh bình đẳng, vừa được giác ngộ nên rất vui vẻ, do vậy gọi là hoan hỷ.

[7] Tứ đế: bốn chân lý khổ, nguyên nhân của khổ, cảnh giới chấm dứt khổ và con đường dẫn đến cảnh giới ấy.

[8] A-la-hán: bậc Thánh đã đoạn hết Kiến hoặc, Tư hoặc trong ba cõi, chứng được Tận trí, xứng đáng nhận tất cả sự cúng dường của thế gian; là một trong bốn quả Thanh văn. Có ba nghĩa: Sát tặc, Ứng cúng và Bất sinh.

[9] Tu-đà-hoàn: Quả đầu tiên trong bốn quả Thánh của Thanh văn thừa.

[10] Mười hai bộ kinh: mười hai thể loại kinh được phân biệt theo hình thức trình bày và nội dung giáo pháp.

1. Khế kinh (Tu-đa-la): trường hàng, tức thể loại văn xuôi, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của Phật.

2. Ứng tụng (Kỳ-dạ): trùng tụng, tức phần kệ tụng giải thích lại giáo thuyết mà khế kinh đã nói.

3. Ký biệt (Hòa-già-la-na): còn gọi Thụ ký, vốn là các đoạn văn giải thích về giáo nghĩa, đời sau đặc biệt chỉ cho lời ấn chứng trước của Phật đối với việc làm ở vị lai của các đệ tử.

4. Phúng tụng (Già-đà): còn gọi Cô khởi, tức là phần kệ tụng độc lập, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của đức Phật mà không lặp lại ý của văn trường hàng trước đó.

5. Tự thuyết (Ưu-đà-na): đức Phật không đợi có người hỏi pháp mà tự  khai thị giáo thuyết.

6. Nhân duyên (Ni-đà-na): ghi chép nhân duyên thuyết pháp giáo hóa của Phật, như phẩm Tự của các kinh.

7. Thí dụ (A-bà-đà-na): dùng thí dụ để giảng nói pháp nghĩa.

8. Bản sự (Y-đế-viết-đa-già): các bản kinh nói về hành nghi ở đời quá khứ của Phật và đệ tử, ngoài Bản sinh đàm, hoặc những kinh mở đầu bằng câu: “Phật như thị thuyết” cũng thuộc loại bản sự.

9. Bản sinh (Xà-đà-già): thể loại kinh nói về các hạnh mà đức Phật tu hành vào thời quá khứ.

10. Phương quảng (Tỳ-phật-lược): các kinh giảng nói giáo nghĩa rộng lớn sâu xa.

11. Hy pháp (A-phù-đà-đạt-ma): còn gọi Vị tằng hữu pháp, nói về những việc ít có của Phật và các đệ tử.

12. Luận nghị (Ưu-ba-đề-xá): đức Phật luận nghị phân biệt thể tánh các pháp, làm sáng tỏ ý nghĩa.

Mười hai thể loại này Đại thừa, Tiểu thừa đều có. Nhưng có kinh cho rằng Phương quảng chỉ Đại thừa mới có, hoặc cho rằng ngoài Ký biệt, Tự thuyết và Phương quảng thì chín bộ còn lại đều thuộc về Tiểu thừa; có thuyết lại cho rằng ngoài Nhân duyên, Thí dụ và Luận nghị thì chín bộ còn lại đều thuộc về Đại thừa. Có người nói chín thể loại kinh không có Thí dụ, Bản sinh và Luận nghị, hoặc không có Tự thuyết, Thí dụ và Luận nghị.

[11] Năm tội nghịch: còn gọi Ngũ nghịch tội. Năm tội cực ác trái với đạo lý. Theo thuyết của Tiểu thừa, năm tội nghịch là: 1. Giết mẹ (Matrghata); 2. Giết cha (Pitrghata); 3. Giết A-la-hán (Arhadghata); 4. Làm thân Phật ra máu (Tathagatasyantike dustacitta durhirotpadana) và 5. Phá hòa hợp tăng (samghabhada). Hai tội trước là phá ân điền (bỏ ruộng ân nghĩa), ba tội sau là hủy đức điền (hư hao ruộng đức). Người phạm vào năm tội này sẽ bị đọa vào địa ngục Ngũ vô gián.

[12] Mười nghiệp ác: Sát sinh, Trộm cắp, Tà dâm, Vọng ngữ, Lưỡng thiệt ( nói lời gây ly gián, lời phá hoại), Ác khẩu (nói lời thô ác), Ỷ ngữ (là lời nói vô nghĩa, lời nói do tâm nhiễm phát ra), Tham dục (tham ái, tham thủ, xan tham), Sân khuể, Tà kiến (tức ngu si).

Sách cùng thể loại
Niệm Phật Luận
Niệm Phật Luận
Đại Sư Thái Hư
Ấn Quang đại sư gia ngôn lục
Ấn Quang đại sư gia ngôn lục
Như Hòa
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà
Thích Pháp Đăng
Những điều căn bản về pháp môn Tịnh Độ & trợ niệm lúc lâm chung
Những điều căn bản về pháp môn Tịnh Độ & trợ niệm lúc lâm chung
Thích Tâm Hoà
Tịnh Độ Hoặc Vấn
Tịnh Độ Hoặc Vấn
HT. Thích Thiền Tâm
Tây Phương Yếu Quyết
Tây Phương Yếu Quyết
Thích Nguyên Chơn